Thông tin khoa học của CÂY NGƯU TẤT
Radix Achyranthis bidentatae
Dược liệu là rễ đã chế biến của cây ngưu tất | Achyranthis bidentata Blume., |
họ Dền | Amaranthaceae. |
Ngưu tất đã được chính thức đưa vào Dược điển II Việt Nam tập 3 năm 1994.
Đặc điểm thực vật
Cây thuộc thảo cao khoảng 1m. Thân mảnh, lá mọc đối, hình trứng, đầu nhọn, mép nguyên dài 5-12 cm, rộng 2-5 cm. Cụm hoa là bông ở đầu cành hay kẽ lá. Hoa mọc hướng lên nhưng khi biến thành quả sẽ mọc quặp xuống.
Quả nang, lá bắc còn lại và nhọn thành gai cho nên vướng phải có thể mắc vào quần áo. Cây này hiện nay được trồng thành công ở nước ta, dược liệu đủ dùng trong cả nước và xuất khẩu.
Trồng trọt và chế biến
Trồng bằng hạt. Ở đồng bằng thì trồng vào tháng 9-10, thu hoạch vào tháng 2-3. Vùng miền núi trồng vào tháng 2-3 thu hoạch vào tháng 9-10. Muốn lấy giống thì cây sau khi thu hoạch, cắt bớt rễ, cắt bớt thân và trồng lại khoảng 4 tháng nữa mới lấy hạt.
Năng xuất hiện nay khoảng 1,2 tấn một hecta.
Thu hoạch rễ khi cây bắt đầu úa vàng, rửa sạch, xông sinh rồi phơi hoặc sấy. Rễ to, dài, dẻo là loại tốt.
Loại có thân và rễ màu hồng gọi là hồng thảo căn.
Thành phần hóa học
Rễ có các saponin, khi thủy phân cho các sapogenin là acid oleanolic. Ngoài ra còn có ecdysteron và inokosteron.
– Ecdysteron
R= CH3
R1= OH
– Inokosteron
R = CH2OH
R1= H
Kiểm nghiệm
– Vi phẫu và soi bột: Tham khảo DĐVN IV.
– Định tính. DĐVN dựa vào kết quả phân tích bẳng sắc ký lớp mỏng để phát hiện acid oleanolic: chiết xuất saponin bằng ethanol 96o, thủy phân saponin bằng acid hydrochloric, chiết acid oleanolic bằng ether dầu hỏa, bốc hơi dung môi rồi cho hòa tan cắn trong ethanol dùng làm dung dịch thử. Bản mỏng là silicagel H trộn với dung dịch cellulose carboxymethyl natri 0,5%. Dung môi khai triển là hỗn hợp chloroform-methanol 40:1. Thuốc thử phát hiện là dung dịch acid phosphomolybdic 5% trong ethanol và sấy ở 110oC trong 10’. Kết quả đối chiếu với acid oleanolic chuẩn.
Tác dụng và công dụng
+ Rễ ngưu tất đã được GS Đoàn Thị Nhu và cộng sự chứng minh có tác dụng hạ cholesterol máu và có tác dụng hạ huyết áp. Viện Dược liệu (Bộ Ytế VN) đã sản xuất cao toàn phần bào chế dưới dạng viên đem thử tại viện Bảo vệ sức khoẻ người có tuổi do GS Phạm Khuê và cộng sự đã đi đến kết luận sau:
– Ngưu tất có tác dụng làm giảm cholesterol máu trên 65% số bệnh nhân có cholesterol máu cao được điều trị.
– Ngưu tất có tác dụng làm giảm tỉ lệ b /a lipoprotein máu ở 82% số bệnh nhân có tỉ lệ b /alipoprotein máu cao điều trị.
– So sánh với Clofibrat (một loại thuốc hóa học được dùng phổ biến điều trị các bệnh nhân trên) thì tác dụng hạ cholesterol máu cao hơi yếu hơn, còn tác dụng hạ tỉ lệ b /a lipoprotein thì gần tương đương.
– Phạm Kim Mãn (luận án PTS1992) đã nghiên cứu đưa ra chế phẩm “Bidentin” mà thành phần có saponin của rễ ngưu tất cộng với chất phụ gia để làm thuốc hạ cholesterol. Thuốc đã được thử lâm sàng có kết quả tốt, thuốc ổn định và không gây tác dụng phụ.
+ Saponin của ngưu tất cũng được các tác giả An Độ nghiên cứu thấy có tác dụng trợ lực tử cung.
+ Trong đông y vị ngưu tất được dùng phối hợp với một số dược liệu khác để chữa chứng mất kinh, đẻ khó. Ngoài ra còn dùng để chữa bệnh thấp khớp, đau lưng, bí tiểu tiện.
Chú thích: ở nước ta còn có cây cỏ xước – Achyranthes aspera L., mọc hoang, nếu cây được trồng và chăm bón thì cũng cho rễ mềm và cũng có thể dùng được như ngưu tất. Cây này khác cây trên ở chỗ lá có khía răng, lá to hơn và bông dài hơn.
Rễ cỏ xước có saponin nhóm olean. Hạt có các saponin sau đã xác định cấu trúc:
R R1
Achyranthes saponin A – glc A4 – glc4 – rha – H
Achyranthes saponin B – glc A4 – glc4 – rha – gal
Achyranthes saponin C – glc A4 – rha – glc A
Achyranthes saponin D – glc A4 – glc4 – rha – glc A
Ngoài ra còn có ecdysteron, betain.
Hỗn hợp saponin phân lập từ hạt cỏ xước có tác dụng tăng sức co bóp tim cô lập của ếch, chuột lang, thỏ.
Copy xin vui lòng ghi nguồn duoclieu.edu.vn